Ngành thép được đánh giá sẽ tiếp tục có những biến động khó lường trong năm 2020. Những yếu tố tác động đến thị trường ngành thép bao gồm cuộc xung đột thương mại Mỹ - Trung Quốc có thể sẽ tiếp tục leo thang và chưa đạt được thỏa thuận cuối cùng. Do đó, trật tự thương mại trên thế giới vẫn sẽ tiếp tục bị đảo lộn, giá nguyên liệu và thị trường tiền tệ sẽ biến động mạnh, khó lường.
Ngành thép năm 2020 dự báo sẽ tiếp tục có những biến động khó lường ảnh hưởng không nhỏ tới hai ông lớn khối doanh nghiệp tôn thép là Tôn Hoa Sen và Thép Nam Kim.
Thêm vào đó, hoạt động xuất khẩu sẽ khó khăn hơn do các biện pháp phòng vệ thương mại, suy giảm nhu cầu tiêu thụ và gia tăng áp lực cạnh tranh từ nguồn cung nội địa tại các thị trường xuất khẩu. Và cuối cùng, thị trường nội địa sẽ tiếp tục cạnh tranh khốc liệt và sàng lọc mạnh.
Rõ ràng, ngành thép nói chung, ngành tôn mạ nói riêng tồn tại cả những bất định và rủi ro cao. Trong vòng 2 năm kể từ đầu 2017, sự biến chuyển với tốc độ “chóng mặt” từ mức lợi nhuận cao chuyển sang thua lỗ xảy ra với cả công ty thương mại nhỏ cho tới tập đoàn sản xuất lớn. Không ít công ty chuyển từ việc xây dựng nhà máy, mở rộng chuỗi cửa hàng phân phối sang cắt giảm, đóng cửa và thậm chí phải bán bớt tài sản. Một số công ty phải nhờ tới sự trợ giúp của các cổ đông chiến lược nước ngoài để hỗ trợ về vốn và tái cấu trúc.
Bức tranh tài chính của khối doanh nghiệp tôn thép dịch chuyển theo hướng co hẹp sản xuất, quy mô tài sản, một số công ty hiện chưa phục hồi về mốc lợi nhuận gộp dương.
Các doanh nghiệp thép gặp nhiều khó khăn và phải có những quyết sách, thay đổi phù hợp để ổn định được tình hình sản xuất kinh doanh.
Tập đoàn Hoa Sen (HoSE: HSG) và Công ty cổ phần Thép Nam Kim (NKG) chiếm khoảng 50% thị phần tôn mạ. Về cơ cấu tài chính, cả hai công ty có một giai đoạn dài cạnh tranh và mở rộng công suất nên khi ngành tôn thép khó khăn đã dẫn tới mất cân đối tài chính, nhất là HSG do “lấy ngắn nuôi dài”. Mặc dù kinh doanh không bị lỗ, nhưng HSG hiện vẫn chưa thoát khỏi tình trạng mất cân đối tài chính, vì chủ yếu tài trợ tài sản bằng nguồn nợ vay ngắn hạn.
Nhìn vào cơ cấu tài sản của HSG và NKG có thể thấy, “cỗ máy” HSG to và cồng kềnh hơn nên việc tái cấu trúc nhiều khả năng sẽ kéo dài khi có 15 công ty con, 2 công ty liên kết, 172 chi nhánh so với NKG có 2 công ty và 3 chi nhánh là đơn vị hạch toán trực thuộc.
Một số kết quả tái cấu trúc trong thời gian qua là tỷ trọng nợ vay ngân hàng ngắn và dài giảm đáng kể, NKG hiện tại còn khoảng 46%, tại HSG là 59% trên tổng tài sản. Xét về các chỉ tiêu hiệu quả hoạt động của tài sản và chính sách bán hàng, cả hai doanh nghiệp đều tích cực trong giai đoạn giá thép cán nóng rơi mạnh, giá bán đầu ra không thể tăng, thậm chí giảm. Mức tồn kho hiện tại của cả hai đều giảm hơn một nửa so với đỉnh cao ở giai đoạn quý IV/2017 - quý II/2018 (quá trình này tại NKG diễn ra mạnh mẽ hơn).
Cùng bán các mặt hàng tôn mạ, ống thép, nhưng tổ chức mô hình bán hàng của HSG và NKG là khác nhau. NKG phân phối sản phẩm tới các xưởng cán, đại lý phân phối, thông qua các tổng kho tập trung chủ yếu ở khu vực miền Nam và một kho tại Hà Nội.
Trong khi đó, HSG tự xây dựng các chi nhánh riêng, bán hàng sỉ và lẻ qua các chi nhánh này, dẫn tới chi phí vận hành “ăn” vào lợi nhuận gộp khá nhiều. Do đó, biên lợi nhuận gộp dù được Công ty duy trì ở mức dương, bình quân khoảng 9% doanh thu trong một năm trở lại đây, nhưng lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh vẫn âm trong quý IV/2018 và quý I/2019, mới chỉ có lãi trở lại khoảng hơn 30 tỷ đồng trong quý II/2019. HSG tái câu trúc theo hướng mô hình chi nhánh tỉnh quản lý các cửa hàng, nhân sự một năm qua giảm từ hơn 7.000 người xuống 6.416 người.
Ngành công nghiệp tôn mạ và ống thép mang tính chu kỳ vì đa phần các nhà đầu tư thường nhìn nhận các sản phẩm tôn mạ, ống thép là đầu vào cho sử dụng trong lĩnh vực xây dựng, vách ngăn trần nhà, cửa cuốn, trang trí nội ngoại thất và sản xuất các mặt hàng gia dụng, xây dựng hệ thống dẫn nước trên các tòa nhà cao tầng…, tức ngành này gắn liền với sự phát triển của ngành bất động sản, một ngành cũng mang tính chu kỳ cao.
Tuy nhiên, tính chu kỳ của ngành tôn mạ, ống thép không rõ ràng bằng ngành bất động sản hoặc thép xây dựng, vì tính ứng dụng đầu ra của các sản phẩm rất đa dạng, ví dụ ống thép có thể sử dụng làm cột đèn chiếu sáng, tháp ăng ten, tháp truyền hình, thiết bị ô tô, tôn mạ kẽm có thể sử dụng để chế tạo các chi tiết trong phụ tùng xe ô tô, xe gắn máy, xe đạp, hay các bảng quảng cáo.
Nhìn chung, việc xác định chu kỳ chung của ngành tôn mạ và ống thép là rất khó khăn, vì có gần 50% sản lượng sản xuất của ngành phục vụ cho việc xuất khẩu trên toàn thế giới với những ứng dụng đa dạng và khó xác định tính chu kỳ mặc, dù tính chu kỳ là hiện hữu nhưng việc dự đoán không mang tính thực tế cao.
Tới thời điểm này, có thể khẳng định, việc nâng công suất của các doanh nghiệp trong ngành tôn mạ và ống thép là sai thời điểm do những dự báo lạc quan về thị trường bất động sản, không lường trước được hết các rủi ro và cả việc quản trị rủi ro không tốt dẫn tới bức tranh ảm đạm của toàn ngành.
Trong bối cảnh đó, Công ty chứng khoán Rồng Việt (VDSC) nhận định trong số các công ty sản xuất vật liệu xây dựng, chỉ có Hoa Sen sở hữu mạng lưới bán lẻ trực tiếp cho người tiêu dùng. Lợi thế này cho phép Hoa Sen giữ vững biên gộp trong khi diễn biến giá thép cán nóng (HRC) biến động, đây là đặc điểm quan trọng để dự phóng tốc độ phục hồi lợi nhuận của Hoa Sen so với các doanh nghiệp khác trong ngành. Ngoài ra, Hoa Sen cũng đang nỗ lực hạn chế các hoạt động đầu cơ để giảm nợ ngắn hạn và chi phí lãi vay.
Còn về Thép Nam Kim, VDSC cho rằng, đây là một trong những nhà sản xuất tôn lạnh đầu ngành sở hữu công suất lớn và là một trong số ít các công ty tự cung cấp thép cán nguội (CRC). Tổng công suất của Nam Kim đạt trên một triệu tấn tôn mạ/ năm và hơn 200.000 tấn thép ống/ năm, tương đương với lần lượt khoảng 16% và 6% nhu cầu của thị trường. Tự chủ nguồn nguyên liệu CRC đồng nghĩa với việc NKG có thể giữ lại lợi nhuận dày hơn trong mùa cao điểm tiệu thụ và ít phụ thuộc vào thị các xưởng gia công.
Đánh giá về sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp thép trong nước, cụ thể là Thép Nam Kim và Tôn Hoa Sen, Công ty chứng khoán Bản Việt (VCSC) cho rằng tăng trưởng ổn định trong doanh số bán trong nước của Nam Kim năm 2019 phần nào đến từ việc Hoa Sen giảm tăng trưởng sản lượng nhằm duy trì khả năng sinh lời thông qua giảm chi phí và nợ, cũng như tái cơ cấu hệ thống bán lẻ.
Thép Nam Kim duy trì doanh số bán hàng trong nước. Năm 2019, tổng doanh thu nội địa là hơn 8.745 tỷ đồng, tăng hơn 9,8% so với năm 2018.
Tuy nhiên, khi kết quả kinh doanh cốt lõi của Hoa Sen đang cải thiện, VCSC kỳ vọng mức độ cạnh tranh cho thị phần trong nước sẽ dần trở nên nóng hơn trong năm 2020. Diễn biến này cùng với kỳ vọng về sự chững lại trong nhu cầu vật liệu xây dựng của cả thị trường trong nước và xuất khẩu do dịch COVID-19 bùng phát sẽ tạo ra các thách thức cho quá trình phục hồi kinh doanh của Nam Kim trong năm 2020.
VCSC giả định thời gian đỉnh điểm của dịch corona sẽ dần rõ nét vào cuối quý I/2020 và hoạt động kinh doanh của Nam Kim sẽ dần trở lại mức thông thường từ quý II/2020. VCSC dự báo tổng sản lượng bán tấm tôn mạ và ống thép của Nam Kim trong năm 2020 ở mức 659.000 tấn. Doanh thu thuần của Nam Kim được VCSC dự báo ở mức hơn 12.000 tỷ đồng, giảm nhẹ 2% so với năm 2019.
Trong bối cảnh khả năng sinh lời mảng kinh doanh cốt lõi của HSG đã cải thiện đáng kể trong 4 quý qua, VCSC tiếp tục kỳ vọng Hoa Sen sẽ tập trung lấy lại đà tăng trưởng sản lượng bán trong giai đoạn từ năm 2020 trở đi, đặc biệt đối với thị trường trong nước.
Tuy nhiên, nỗ lực của HSG đang đối mặt với những thách thức tạm thời đến từ dịch COVID-19 bùng phát, VCSC cho rằng diễn biến này sẽ khiến nhu cầu vật liệu xây dựng chững lại trong thị trường trong nước lẫn xuất khẩu.
Với giả định dịch virus corona sẽ đạt đỉnh trước cuối quý 2 năm tài chính 2020 và hoạt động kinh doanh sẽ dần quay về mức bình thường từ quý 3 năm tài chính 2020 trở đi. VCSC dự báo tổng sản lượng tôn mạ bán trong năm 2020 còn 1,1 triệu tấn (đi ngang so với năm 2019). Đồng thời, doanh thu thuần của Hoa Sen được dự báo ở mức hơn 28.600 tỷ đồng, tăng 2% so với năm 2019.