Ven hồ Gươm phía Tây nhìn từ tháp Hòa Phong. Ảnh minh họa nguồn internet
Từ Lục Thủy đến hồ Gươm
Thời Lý, bao quanh kinh thành Thăng Long là các con đê thấp nên những năm có lũ lớn, nước sông Hồng, Tô Lịch tràn cả vào khu vực hoàng thành gây úng ngập. Có năm lụt lớn dân chúng phải đi lại bằng thuyền. Đến đầu đời Trần, tình trạng úng ngập vẫn xảy ra nên vua Trần Thái Tông đã cho đắp đê trên các con sông. Sách “Đại Việt sử ký toàn thư” chép: “Tháng 3 (năm 1248), lệnh các lộ đắp đê phòng lụt, gọi là đê quai vạc, từ đầu nguồn đến bờ biển, để ngăn nước lũ tràn ngập. Đặt hà đê chánh phó sứ để quản đốc. Chỗ đắp thì đo xem mất bao nhiêu ruộng đất của dân, theo giá trả lại tiền. Đắp đê quai vạc là bắt đầu từ đó”.
Con đê bao quanh thành Thăng Long bắt đầu từ Hàng Than qua Hàng Đường, Hàng Ngang, Hàng Đào, xuống Bà Triệu rồi quặt phải theo phố Nguyễn Du ngày nay. Vì thế hồ Lục Thủy nằm ngoài đê. Dấu tích của đê đó vẫn còn, phố Hàng Trống chính là đê và dốc Báo Khánh là triền đê xuống hồ. Đến đời Lê, để mở rộng kinh thành về phía Đông đã cho đắp đê mới. Con đê đó tương ứng với phố Nguyễn Hữu Huân, Lý Thái Tổ ngày nay nên hồ Lục Thủy lại nằm trong đê. Sau này lại đắp đê mới nên hồ ngày càng xa đê.
Thời Lê trung hưng (1533-1789), vua Lê chỉ là bù nhìn, quyền hành nằm trong tay các chúa. Năm 1599, chúa Trịnh Tùng cho xây Vương Phủ ở phía Nam kinh thành, và trong nhiều năm tiếp theo Vương Phủ liên tục được mở rộng (tương ứng với đoạn đầu phố Tràng Thi, đầu phố Quang Trung, khúc giữa Lý Thường Kiệt và đoạn đầu phố Bà Triệu hiện nay). Cùng với xây Vương Phủ, các chúa đã lấp phía đông Hồ Lục Thủy để xây lầu Ngũ Long (tương ứng với khu vực Bưu Điện Hà Nội ngày nay). Để có đường cưỡi voi sang lầu Ngũ Long, nhà chúa cho ngăn hồ Lục Thủy làm hai, nửa trên gọi Tả Vọng (nay là hồ Gươm), nửa dưới gọi là Hữu Vọng (còn gọi là hồ Thủy Quân). Hồ Hữu Vọng theo thời gian đã bị lấp dần.
Đền Ngọc Sơn và tháp Rùa
Để có chỗ chơi trên hồ, chúa Trịnh Giang cho xây cung Khánh Thụy ở phía bắc Tả Vọng (nay là đền Ngọc Sơn). Trên bờ gần cung sai đắp hai hòn núi giả gọi là Đào Tái và Ngọc Bội, trên đảo nhỏ ở phía nam (tháp Rùa ngày nay) thì cho xây Tả Vọng đình lấy chỗ vui chơi, câu cá. Vào những ngày đẹp trời, đoàn thuyền của nhà chúa dạo quanh Tả Vọng, theo sau là thuyền của các quan và gia nhân, sau dạo thuyền nhà chúa lên Tả Vọng Đình buông cần câu cá, có khi tiệc tùng đến khuya, tiếng đàn làm rộn ràng cả góc hồ, dân chúng quanh hồ đổ ra xem.
Năm 1786, vua Lê Hiển Tông băng hà truyền ngôi cho cháu là Lê Duy Khiêm (tức Lê Chiêu Thống) và chỉ hai năm sau khi lên ngôi, Lê Chiêu Thống đã ra lệnh phá hết đền đài nhà chúa. Cung Khánh Thụy tan tành chỉ còn là đảo hoang, phủ chúa bị quân Thanh phóng hỏa đốt. Khi Nguyễn Ánh đánh bại nhà Tây Sơn lên ngôi năm 1802 sau đó chuyển kinh đô vào Huế thì Thăng Long bị hạ cấp xuống Trấn, đến đời vua Minh Mạng bị hạ tiếp xuống thành tỉnh Hà Nội và Tả Vọng bị lãng quên. Dân các làng quanh hồ là Yên Trường, Vũ Thạch, Yên Trung, Tự Tháp, Phúc Tô, Báo Khánh... ào xuống sát hồ chiếm đất làm nhà. Trên cung Khánh Thụy có một người đã xây một ngôi chùa nhỏ. Năm 1865, nhà Nho Nguyễn Siêu cho cải tạo ngôi chùa trên đảo Ngọc Sơn.
Còn ở gò Rùa, theo tín ngưỡng là đất “vạn đại công khanh”, nhà nào để được hài cốt vào đó thì con cháu muôn đời làm quan. Chính vì thế, ông Nguyễn Hữu Kim (thường gọi là Bá Kim, 1832 - 1901), khi đó là hào mục của thôn Cựu Lâu (nay là khu vực phố Hàng Khay, Hai Bà Trưng và đầu phố Bà Triệu) đã “lo lót” Kinh lược sứ và cả viên quan Pháp chỉ huy đội quân đóng ở Đồn Thủy để xây tháp làm “hậu chẩm” cho chùa Bái Ân. Tháp Rùa được xây vào khoảng năm 1877. Tuy nhiên cho đến nay chuyện ông Nguyễn Kim xây tháp Rùa cần phải tìm hiểu thêm vì còn nhiều nghi vấn.